Các dấu hiệu của bệnh thận mạn, cần biết để phòng tránh và điều trị

GD&TĐ - Bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối tại Việt Nam thường được phát hiện khi đã quá muộn.

Bệnh thận mạn tính thường phát hiện muộn.
Bệnh thận mạn tính thường phát hiện muộn.

Biểu hiện bệnh lý

PGS.TS Đỗ Gia Tuyển, Trưởng khoa Thận Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai cho biết: Suy thận mạn là tình trạng suy giảm chức năng thận mạn tính không hồi phục theo thời gian nhiều tháng, nhiều năm, do tổn thương không hồi phục về số lượng và chức năng của các nephron.

Cần phân biệt rõ bệnh thận mạn tính và suy thận mạn tính. Khái niệm bệnh thận mạn tính đã bao hàm cả suy thận mạn.

Như vậy khi một người được chẩn đoán bệnh thận mạn tính không đồng nghĩa với suy thận mạn, mà cần biết mình ở giai đoạn nào.

Bệnh nhân chỉ được coi là suy thận mạn khi mắc bệnh thận mạn có mức lọc cầu thận < 60ml/phút tương ứng với bệnh thận mạn giai đoạn III, IV, và V.

Người được coi là mắc bệnh thận mạn khi có 1 trong 2 tiêu chí sau: Bị tổn thương cấu trúc hoặc chức năng thận kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm giảm GFR (mức lọc máu cầu thận), bao gồm tổn thương bệnh học thận (trên sinh thiết) hoặc bất thường trong xét nghiệm nước tiểu hoặc máu, hoặc trên chẩn đoán hình ảnh.

GFR nhỏ hơn 60ml/phút/ 1.73m2 kéo dài trên 3 tháng, có kèm hoặc không kèm tổn thương thận.

Tổn thương thận có nhiều dấu ấn, tuy nhiên trên thực hành lâm sàng chủ yếu dựa vào albumin niệu, là dấu ấn để đánh giá tổn thương thận, gợi ý đến tình trạng có tổn thương ở cầu thận gây tăng khả năng thấm cầu thận và làm albumin bị lọc và có trong nước tiểu.

Có thể đánh giá có albumin trong nước tiểu hay không bằng cách thu thập nước tiểu theo thời gian thường theo 24h, que nhúng hoặc phổ biến nhất là tỉ số albumin/creatinin niệu (ACR) mẫu nước tiểu ngẫu nhiên. ACR bình thường < 10mg/g.

Những người có nguy cơ mắc bệnh thận mạn

TS Đỗ Gia Tuyển, ở Việt Nam nguyên nhân hàng đầu vẫn là bệnh cầu thận mạn các thể loại khác nhau, sau đó đến viêm thận bể thận mạn do sỏi, đái tháo đường, tăng huyết áp…

Những người có nguy cơ cao mắc bệnh thận mạn đó là những người mắc bệnh đái tháo đường, tăng huyết áp, Xơ vữa mạch, Suy tim, Bệnh tiết niệu: Bệnh thận –tiết niệu tắc nghẽn, bàng quang thần kinh, các bệnh dị dạng đường tiết niệu cần phẫu thuật, bệnh hệ thống gây tổn thương thận: Lupus ban đỏ hệ thống, viêm mạch,viêm khớp dạng thấp, đa u tủy xương...

Những người dùng kéo dài những thuốc sau: Giảm đau chống viêm, thuốc ức chế calcineurin, lithium cacbonate, aminosalicylates...

Những người có bố (mẹ) mắc bệnh thận mạn giai đoạn 3-5 và người trên 65 tuổi.

“Nói chung người mắc bệnh thận mạn ít được phát hiện sớm, đa phần bệnh xuất hiện và tiến triển âm thầm ít có triệu chứng rầm rộ, thường khi được phát hiện đã ở giai đoạn nặng. Vì vậy những người có nguy cơ mắc bệnh này cần đi kiểm tra định kỳ để tầm soát bệnh.

Việc phát hiện sớm sẽ giúp cho có biện pháp dự phòng và điều trị để làm chậm tiến triển của bệnh thận mạn tính”, TS Đỗ Gia Tuyển đã đưa ra những khuyến cáo như vậy.

"Bệnh thận giai đoạn cuối hay bệnh thận mạn tính giai đoạn cuối là giai đoạn nặng nhất của bệnh thận mạn. Các biểu hiện gặp trên lâm sàng là do hậu quả của tình trạng tích tụ các độc chất, nước và điện giải trong máu.

Các độc tố này khi thận bình thường được thải qua thận. Hậu quả cuối cùng biểu hiện trên lâm sàng là hội chứng urê máu cao. Suy thận mạn giai đoạn cuối tương ứng với bệnh thận mạn tính giai đoạn 5 (mức lọc cầu thận < 15ml/phút)" - PGS.TS Đỗ Gia Tuyển, Trưởng khoa Thận Tiết niệu Bệnh viện Bạch Mai.

Tin tiêu điểm

Đừng bỏ lỡ